SKKN Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn Sinh học 6

doc 22 trang sklop6 16/04/2024 1250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn Sinh học 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn Sinh học 6

SKKN Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn Sinh học 6
 Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
 PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO QUỲNH PHỤ
 ************************************
 KINH NGHIỆM
 ĐỀ TÀI
 VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP 
 BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY HỌC 
 MÔN SINH HỌC 6 
 Hä vµ tªn: NguyÔn ThÞ Th¾m
 Ngµy th¸ng n¨m sinh: 15/9/1977
 Tr×nh ®é ®µo t¹o : §¹i häc
 N¨m vµo ngµnh : 1998
 §¬n vÞ c«ng t¸c: Tr­êng THCS Quúnh Héi
 Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
 Phần thứ nhất : ĐẶT VẤN ĐỀ.
 1. Lý do chọn đề tài:
 Xu thế phát triển của thế giới đang có những thay đổi sâu sắc về nhiều mặt, nhiều 
lĩnh vực.Trong xu thế đó nền giáo dục của thế giới cũng có những chuyển biến sâu 
sắc về một số mặt như: Toàn cầu hóa, mang tính đại chúng, xuất hiện quá trình dạy – 
tự học, ứng dụng công nghệ thông tin
 Từ ngày 11.01.2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương 
mại thế giới (WTO), theo đó giáo dục nước ta cũng phải có những chiến lược phù 
hợp nhằm đạt được các mục tiêu góp phần cùng cả nước hội nhập với thế giới, phát 
triển nền giáo dục tiên tiến theo kịp nền giáo dục của thế giới. Để thực hiện được yêu 
cầu đổi mới nền giáo dục thì trước hết phải đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp 
dạy học trong đó quan trọng hơn cả là phải đổi mới về phương pháp dạy học. Thế 
nhưng cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường phổ thông 
chưa được là bao, vẫn không đáp ứng được những nhu cầu đổi mới của xã hội vì vậy 
cần có sự đổi mới trong giáo dục nhiều hơn nữa, trong đó sự đổi mới về phương 
pháp dạy và học cần phải đạt hiệu quả thực sự. 
 Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đơn thuần là dạy những vấn đề gì mà còn 
phải là dạy như thế nào. Phải dạy cho học sinh phương pháp tự học, phát huy cao độ 
năng lực tự học ở học sinh đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra. Vì vậy đổi mới phương 
pháp dạy học theo hướng đề cao vai trò chủ thể hoạt động của HS trong học tập là 
một vấn đề cấp thiết và hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
 Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, phương pháp bàn tay nặn bột 
luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra 
câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
 Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ 
những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa 
ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến 
thức.
 Bàn tay nặn bột tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học 
của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, bàn tay nặn bột còn chú 
ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS. 
 Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: 
 “VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY HỌC 
 MÔN SINH HỌC 6 ”
 2. Đối tượng nghiên cứu:
 - Học sinh lớp 6.
 - Sách giáo khoa, sách tham khảo Sinh học 6.
 - Phương pháp “Bàn tay nặn bột”, những nguyên tắc cơ bản của phương pháp 
BTNB, tiến trình hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB
 - Một số bài vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn 
 Sinh học 6. Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
 2.2. Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học.
 HS cần thiết phải tự thực hiện các thí nghiệm của mình phù hợp với hiện tượng, 
kiến thức đang quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ việc HS tự làm thí nghiệm là yếu tố quan 
trọng của việc tiếp thu kiến thức là vì các thí nghiệm trực tiếp là cơ sở cho việc phát 
hiện và hiểu các khái niệm, đồng thời thông qua tự làm thí nghiệm mà HS có thể tự 
hình thành kiến thức liên quan đến thế giới xung quanh mình.
2.3. Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kỹ năng. Một trong 
những kỹ năng đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
 Tìm tòi nghiên cứu yêu cầu HS nhiều kỹ năng như: Kỹ năng đặt câu hỏi, đề xuất 
dự đoán, giả thiết, phương án thí nghiệm, phân tích dữ liệu, giải thích và bảo vệ các 
kết luận của mình thông qua trình bày bằng lời nói hoặc chữ viết ... Một trong những 
kỹ năng đó là HS phải biết xác định và quan sát một sự vật, hiện tượng nghiên cứu. 
Nếu quan sát không có chủ đích mà chỉ quan sát chung chung và thông tin được ghi 
nhận một cách tổng quát thì sẽ không thể giúp HS sử dụng để tìm câu trả lời cho các 
câu hỏi cụ thể.
2.4. Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà 
HS còn cần phải biết lập luận, trao đổi với HS khác, biết viết cho mình và cho 
người khác hiểu.
 Trong một số trường hợp chúng ta có thể xem dạy học theo phương pháp BTNB là 
những thực hành đơn giản. Để các thí nghiệm được thực hiện đúng và thành công, 
đưa lại lý luận mới về kiến thức, HS phải suy nghĩ và hiểu những gì mình đang làm, 
đang thảo luận với HS khác. Các ý tưởng, dự đoán, dự kiến, các khái niệm, kết luận 
phải được phát biểu rõ ràng để chia sẻ thảo luận với các HS khác.
2.5. Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi nghiên cứu.
 Mặc dù cho rằng làm thí nghiệm trực tiếp là quan trọng nhưng không thể bỏ qua 
việc nghiên cứu tài liệu khoa học. Với các thí nghiệm đơn giản không thể đáp ứng 
nhu cầu về kiến thức cần tìm của HS và cũng không truyền tải hết nội dung của bài 
học. Có nguồn tài liệu như: Sách khoa học, thông tin trên internet, báo chí chuyên 
ngành, phim ảnh .... mà GV cần chuẩn bị để hỗ trợ cho HS nghiên cứu.
2.6. Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
 Tìm tòi nghiên cứu khoa học rất ít khi là một hoạt động mang tính cá nhân thuần 
túy mà đó là một hoạt động mang tính hợp tác. Khi các em làm việc cùng nhau trong 
nhóm nhỏ hay các đội, các em làm các công việc tương tự như hoạt động của các 
nhà khoa học, chia sẻ ý tưởng, tranh luận, suy nghĩ về những gì cần làm và phương 
pháp giải quyết vấn đề đặt ra. Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
nhất vì giáo viên không cần chuẩn bị nhiều như đối với các phương pháp khác. 
Phương pháp nghiên cứu tài liệu trong bước tiến hành thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu 
khi dạy học theo phương pháp BTNB khác với việc nghiên cứu tài liệu trong phương 
pháp dạy học truyền thống. Ở đây, nghiên cứu tài liệu được sử dụng để học sinh tìm 
ra câu trả lời cho câu hỏi mà chính các em tự đề xuất dựa trên cơ sở mâu thuẫn giữa 
các nhận thức ban đầu (biểu tượng ban đầu) của học sinh, không phải là nghiên cứu 
tài liệu để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu chỉ nên sử dụng khi đã thực hiện được các phương 
pháp khác vì phương pháp này không tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh 
như các phương pháp nói trên. Có thể nói đây là một phương pháp bổ trợ cho các 
phương pháp nói trên trong việc giúp học sinh tìm hiểu kiến thức một cách đầy đủ 
hơn.
 4. Tiến trình hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB.
4.1. Cơ sở sư phạm của tiến trình dạy học.
 GV tùy theo tình hình, từ một câu hỏi của HS có thể đề xuất những tình huống cho 
phép tìm tòi một cách có lý lẽ. GV hướng dẫn HS chứ không làm thay cho HS. 
4.2. Các bước dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Bước 1: Tình huống xuất phát và nêu vấn đề.
 Tình huống xuất phát hay nêu vấn đề do GV đưa ra như một cách dẫn dắt vào bài 
học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS. Tình huống 
xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì 
việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. 
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu. 
 Bộc lộ biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của HS là bước quan 
trọng, đặc trưng của phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong bước này GV khuyến 
khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến 
thức mới. Để làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của HS, GV có thể yêu cầu HS nhắc lại 
kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu HS 
trình bày biểu tượng ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức như lời nói, 
vẽ hoặc viết .... 
Bước 3: Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết.
 Từ những khác biệt phong phú ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất các câu hỏi từ 
những khác biệt đó. Chú ý xoáy vào những quan niệm liên quan đến các kiến thức 
trọng tâm của bài học.
 Đây là bước khó khăn của GV, vì cần phải chọn lựa biểu tượng ban đầu tiêu biểu 
trong các biểu tượng ban đầu của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học.
 Sau khi HS đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, GV nêu nhận xét 
chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
2. Phương pháp sử dụng: Phương pháp bàn tay nặn bột.
3. Chuẩn bị:
 Giáo viên: - Các loại củ: Củ dong, giềng, gừng, củ hành, củ hành tây, củ tỏi
 - Các loại cây: Xương rồng, ngọn bí, cành mây, cây sả
 - Tranh ảnh, clip, hình về cây bèo đất, cây nắp ấm, cây bắt mồi
 - Dao nhỏ, khăn lau, khay nhựa
 Học sinh: Các loại củ, cây như trên ( mỗi em có ít nhất ba loại) và tranh ảnh, hình 
cây nắp ấm, cây bắt mồi.
4. Tiến trình dạy học ( theo 5 bước).
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát:
- GV yêu cầu HS đưa ra các mẫu vật và tranh ảnh đã chuẩn bị.
- GV ? Ví dụ như: Thân và rễ đều có sự biến dạng. Theo các em lá có biến dạng 
không? Chúng có chức năng gì ?
Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu cho học sinh:
- GV yêu cầu HS làm việc cá nhân (viết, vẽ vào vở thí nghiệm) nêu quan điểm của 
mình về các loại lá biến dạng: Tên cây, hình vẽ, chức năng.
- GV yêu cầu HS trình bày ý kiến của các em về các loại lá biến dạng.
Bước 3: Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết:
- GV tập hợp các ý kiến ban đầu của HS thành các nhóm biểu tượng ban đầu, hướng 
dẫn HS so sánh sự giống và khác nhau của các ý kiến ban đầu, sau đó giúp các em đề 
xuất các câu hỏi nghi vấn đến lá biến dạng.
HS có thể nêu ra các câu hỏi như:
 ? Có chắc chắn gai xương rồng là lá biến dạng không? Tại sao lá biến thành gai?
 ? Có phải tay móc của mây, tua cuốn của bầu, bí, mướp là lá biến dạng? Chúng 
có chức năng gì?
 ? Vỏ của củ dong ta có phải là lá không? Chúng có chức năng gì ?....
- GV tập hợp các câu hỏi của HS (có thể chỉnh sửa cho phù hợp với nội dung bài 
học), HS ghi lại các câu hỏi vào vở thí nghiệm.
- GV? Em làm thế nào để trả lời câu hỏi đã đặt ra?
- GV tổ chức cho HS thảo luận, đề xuất cách kiểm chứng những quan điểm khác 
nhau của cá nhân (hoặc nhóm) đã nêu.
 HS có thể đề xuất nhiều phương án khác nhau: Quan sát đặc điểm bên ngoài của lá 
bài 19, cắt ngang mẫu vật để quan sát cấu tạo trong của phiến lá bài 20GV phân 
tích chọn phương pháp quan sát mẫu vật dựa trên dấu hiệu nhận biết lá là mọc ra từ 
thân, cành, thường có chồi nách, cấu tạo thường có phiến, gân và cuống lá.
- GV chia nhóm HS, phân chia mẫu vật để các nhóm tiến hành.
Bước 4: Tìm tòi - nghiên cứu nhằm kiểm chứng các giả thuyết 
 - HS viết các dự đoán các lá biến dạng vào vở thí nghiệm theo bảng.
 TT Tên cây Tên thường gọi Đặc điểm Đặc điểm của Ý nghĩa của lá 
 của lá biến dạng nhận biết lá sự biến dạng biến dạng
 1
 2
 3
- GV đề nghị các nhóm HS thực hiện quan sát và phân tích đặc điểm của lá biến Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Sinh học 6
sen. Cho HS so sánh kết quả làm việc của mỗi nhóm.
 HS có thể nêu ý kiến khác nhau:
 - Liệt kê các bộ phận của hoa với nhiều tên gọi khác nhau: Nhị, nhụy, lá đài (vỏ 
boa, áo), tràng (cánh), đế (chân đỡ, cuống), hạt phấn, bao phấn, túi mật, ống mật, bầu 
quả
 - Các chức năng tương ứng với các bộ phận: Bảo vệ, thụ phấn, tạo hương thơm, 
nuôi dưỡng hoa, tạo màu sắc, nâng đỡ hoa, quang hợp
Bước 3: Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết:
- GV tập hợp các ý kiến ban đầu của HS thành các nhóm biểu tượng ban đầu, hướng 
dẫn HS so sánh sự giống và khác nhau của các ý kiến ban đầu, sau đó giúp các em đề 
xuất các câu hỏi liên quan đến nội dung kiến thức về các bộ phận của hoa và chức 
năng của chúng.
- HS có thể nêu ra các câu hỏi liên quan như:
 ? Hoa sen có những bộ phận nào.
 ? Từng bộ phận của hoa có đặc điểm gì.
 ? Vị trí, số lượng, màu sắc.
 ? Chức năng của từng bộ phận của hoa là gì.
 ? Bộ phận nào của hoa có chức năng sinh sản.
 ? Những bộ phận nào của hoa bọc lấy nhị và nhụy? Chúng có chức năng gì.
 ? Bộ phận nào của hoa là quan trọng nhất?....
- GV tập hợp các câu hỏi của nhóm (chỉnh sửa câu hỏi cho phù hợp với nội dung bài 
học).
- GV tổ chức cho HS thảo luận, đề xuất cách kiểm chứng quan điểm của nhóm. 
 HS có thể đề xuất nhiều phương án khác nhau: 
 + Bổ đôi hoa sen quan sát chiều dọc.
 + Tách từng bộ phận của hoa từ ngoài vào trong và quan sát hoặc đếm số lượng.
- GV phân tích chọn phương pháp thực hành quan sát dựa trên mẫu vật thật, tranh 
ảnh hiện có, nêu các bước tiến hành quan sát.
Bước 4: Tìm tòi - nghiên cứu:
- Các nhóm tiến hành bổ đôi hoa sen quan sát chiều dọc, tách từng bộ phận của hoa 
từ ngoài vào trong và quan sát. Vẽ hình quan sát được vào giấy khổ lớn.
- So sánh kết quả làm việc của các nhóm, giải thích những điểm khác nhau cùng đi 
tới thống nhất về cấu tạo và chức năng của hoa.
- HS viết kết quả vào vở thí nghiệm theo bảng như sau:
 Cấu tạo và chức năng của hoa sen:
 TT Tên các bộ phận của hoa Đặc điểm Chức năng
 1
 2
 3
Bước 5: Kết luận, hệ thống hóa kiến thức:
- GV đề nghị các nhóm dựa trên mẫu vật, đối chiếu với tranh ảnh, hình trong SGK 
thực hiện nghiên cứu quan sát, nhận biết các bộ phận của hoa phù hợp với chức năng 
sinh sản của chúng.
- GV hướng dẫn HS so sánh lại với biểu tượng ban đầu của HS ở bước 2 để khắc sâu 

File đính kèm:

  • docskkn_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_trong_day_hoc_mon.doc