SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt Lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt Lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt Lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu
PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA TRƯỜNG THCS TÔ HIỆU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ởtrường THCSTô Hiệu. Họ và tên: Nguyễn Thị Lành Đơn vị công tác: Trường THCS Tô Hiệu, EaBông, Krông ANa -Đăk Lăk. Trình độ đào tạo: Đại học – Môn đào tạo Ngữ văn. Krông Ana, tháng 3 năm 2016 ĐỀ TÀI: Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu. I. PHẦN MỞ ĐẦU: I.1. Lý do chọn đề tài. Vấn đề dạy và học có hiệu quả là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu trong giáo dục.Đặc biệt trong tình hình xã hội hiện nay,đất nước ta đã và đang hội nhập với thế giới, đòi hỏi người học phải có tri thức thực sự mới đáp ứng được yêu cầu xã hội. Chính vì thế nên theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, toàn ngành giáo dục đã và đang đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các bậc học theo hướng phát huy tính tích cực của người học, tập trung vào hoạt động học của học sinh.Từ năm học 2014 - 2015, Bộ giáo dục đang thực hiện thí điểm về mô hình trường học mớiViệt Nam (VNEN)đối với cấp THCS. Theo sách hướng dẫn học Ngữ văn VNEN so với chương trình hiện hành thì chương trình sách hướng dẫn học Ngữ văn VNEN có nhiều thay đổi về phương pháp dạy học. Do đó đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với yêu cầu của chương trình mới mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đang thí điểm. Phân môn tiếng Việt trong sách hướng dẫn học Ngữ văn 6(VNEN) được sắp xếp và giảng dạy không quá khó đối với sự lĩnh hội tri thức của học sinh. Thế nhưng làm sao khi lên lớp giáo viên phải truyền thụ kiến thức để học sinh nắm được một cách chắc chắn, đầy đủ kiến thức cần thiết thì đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực rất nhiều.Làm được điều này,được xem là thành công đối với người giáo viên. Từ thực tiễn đó, để hướng dẫn học sinh học tập tốt từng tiết học ở phân môn tiếng Việt trong sách hướng dẫn học Ngữ văn 6(V NEN), giáo viên phải sử dụng phương pháp nào, phải tìm tòi, nghiên cứu, tích luỹ tri thức ra sao để truyền thụ cho học sinh đạt hiệu quả cao thì không phải là vấn đề đơn giản đối với từng giáo viên. Chính vì lý do trên tôi đã chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam) ở trường THCS Tô Hiệu”.Trong phạm vi nghiên cứu khoa học này, tôi đi sâu tìm hiểu phương pháp đổi mới cách dạy học phân môn tiếng Việt lớp 6 (VNEN) trong môn Ngữ văn cho học sinh THCS theo hướng tích cực. Tôi đã quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng Trang 1 hoạch dạy học mà bản thân đã và đang giảng dạy thực nghiệm tại lớp 6a1(VNEN) trường THCS Tô Hiệu, năm học 2015 - 2016. I.5. Phương pháp nghiên cứu: Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương pháp chủ yếu: 1. Phương pháp thống kê: Qua việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên thống kê kết quả thu được và so sánh. 2. Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy: Thông qua các tiết dạy của bản thân để xem xét, đánh giá. 3. Phương pháp đối chiếu, so sánh để thấy được kết quả trong thực tiễn. 4. Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh lĩnh hội kiến thức thông qua tiết dạy của bản thân kết hợp với việc dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. 5. Phương pháp phân tích, tổng hợp. II. PHẦN NỘI DUNG: II.1.Cơ sở lý luận: Để đi sâu vào nghiên cứu đề tài này, trước hết ta tìm hiểu về khái niệm “Tích cực”.Khái niệm này có các cách hiểu như sau: “1. Có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển; Nhân tố tích cực, mặt tích cực của vấn đề. 2. Tỏ ra chủ động, có những hoạt động tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. 3. Tỏ ra nhiệt tình, đem hết khả năng, tâm trí vào công việc.” [Hoàng Phê (chủ biên) ( 2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.1217] Như vậy, nội hàm khái niệm “tích cực” đã chỉ rõ bản chất của chủ thể - hoạt động; chỉ tính chất, thái độ tham gia vào hoạt động, nhấn mạnh tính chủ động, tự giác, nhu cầu, tính phát triển; sự nhiệt tình, dấn thân của chủ thể. Do đó, thước đo của tính tích cực không chỉ thể hiện ở những hoạt động bề nổi mà quan trọng chính là sự vận động của tâm lí nhận thức bên trong tạo nên sự vận động, phát triển. Trang 3 II.2.Thực trạng: a. Thuận lợi- khó khăn: * Thuận lợi: - Được Sở giáo dục& Đào tạo Đăk Lăk,Phòng giáo dục& Đào tạo Krông Ana cử đi tập huấn, lĩnh hội phương pháp tổ chức, dạy học theo mô hình trường học mới ngay từ đầu năm học 2015 – 2016. - Được nhà trường trang bị cơ sở vật chất đảm bảo cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. - Phía phụ huynh học sinh cũng đã tạo điều kiện về thời gian cho con học bài ở nhà. - Bản thân tôi đã trực tiếp dạy chương trình Ngữ văn lớp 6 (VNEN) nên rút ra được kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy. * Khó khăn: Đối với giáo viên: Việc áp dụng phương pháp dạy học mới theoMô hình trường học mới còn nhiều bỡ ngỡ. Đối với học sinh: Học sinh của trường THCS Tô Hiệu đa phần là con em đồng bào dân tộc thiếu số nên có học lực không đồng đều, số học sinh có học lực yếu khá cao. Do khả năng tiếp thu kiến thức của các em chậm và đa số là lười học, về nhà không học bài cũ, không soạn bài mới trước khi đến lớp; Do nhiều em còn rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp và học tập. Những học sinh học ở trường Tiểu học Võ Thị Sáu và trường tiểu học Ea Bông các em chưa được học chương trình VNEN nên giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để giúp đỡ các em làm quen với phương pháp mới. b.Thành công- hạn chế: Với việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào phân môn tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn 6 (VNEN) đối với bản thân tôi đã có một số thành công nhất định đó là: - Giáo viên khi đứng lớp tự tin hơn vì đã thiết kế được kế được kế hoạc dạy học phù hợp với chuẩn kiến thức, phù hợp đối tượng học sinh. Hình thức tổ chức dạy học phong phú, thuận tiện trong giảng dạy, kiến thức được củng cố, mở rộng. Trang 5 Tuy biên soạn đã có sự đổi mới, thay đổi, chính lí, bổ sung nhưng cũng không kém phần khó hiểu vì đã có sự cắt xén, giảm bớt nội dung kiến thức so với chương trình hiện hành. Nếu giáo viên lên lớp mà không nghiên cứu kĩ tài liệu thì khi giảng dạy nếu cứ rập khuôn theo câu hỏi của sách tài liệu hướng dẫn học đôi khi sẽ gặp một số trở ngại trong dạy học. Bên cạnh đó trong những năm gần đây, tình hình học sinh trong nhà trường có sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, với tình trạng học sinh chây lười trong việc học các môn, trong đó có bộ môn Ngữ văn sẽ ảnh hướng rất lớn đến chất lượng giờ dạy. Bước vào đầu năm học tôi đã điều tra thu thập số liệu cụ thể về kết quả xếp loại học lực môn tiếng Việt năm học 2014 – 2015 của học sinh lớp này năm lớp 5 như sau: Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém 36 2 7 19 8 0 Sau khi vào đầu năm học 2015 – 2016 trong tháng đầu tiên của năm học, tôi đã tiến hành khảo sát thực nghiệm kết quả học tập của học sinh về kiến thức phân môn tiếng Việt thì tôi thu được kết quả như sau: Tổng số học Kết quả sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu 36 SL TL SL TL SL TL SL TL 2 5,6% 5 13,8% 18 50% 11 30,6% Như vậy với kết quả trên cùng với sựtheo dõi học sinh trong từng tiết dạy, tôi nhận thấy khả năng tiếp thu bài của học sinh rất chậm, lớp học trầm, không khí lớp học nặng nề, học sinh thụ động, ít phát biểu tham gia xây dựng bài, nhiều em có vẻ chán nản không thích học, kĩ năng hoạt động nhóm không có Theo tôi thực trạng học sinh học tập thiếu tập trung như vậy đó là do những nguyên nhân sau: + Học sinh chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, không chuẩn bị bài mới, không hứng thú khi đến tiết học. + Giáo viên chưa có hệ thống những câu hỏi gợi mở, tích cực;chưa có những phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng tiết học cụ thể nhằm thu hút, lôi cuốn học sinh. Ví thế, cần áp dụng phương pháp tích cực vào tiết học để Trang 7 Bốn là, phải biết khơi dậy ở học sinh lòng say mê môn học bằng việc không ngừng trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá. Để làm được các vấn đề trên thì khi thiết kế giáo án giáo viên phải thực sự chú ý khai thác nội dung bài dạy bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi và hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, làm thâu tóm được kiến thức bài học. Thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp người học hứng thú hơn, chiếm lĩnh tri thức dễ dàng hơn từ đó sẽ có kết quả học tập cao hơn. II.3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: -Tổ chức lớp học sinh động, tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng. - Có những phương pháp phù hợp trong việc dạy học phân môn Tiếng Việt theo hướng tích cực, phát triển các kĩ năng học môn Ngữ văn. - Giáo viên củng cố kiến thức kịp thời cho học sinh, giúp các em năng động hơn, có sự hứng thú hơn trong tiết học, chủ động lĩnh hội kiến thức từ đó kết quả học tập sẽ được nâng cao. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: Để tiết dạy sinh động và giúp học sinh hứng thú với tiết học, giáo viên có thể thực hiện áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào mỗi bài học. Tùy thuộc vào những kĩ năng, kiến thức truyền đạt cho các em mà giáo viên sẽ chọn phương pháp phù hợp, nhằm khảo sát được hiệu quả dạy của bản thân và chất lượng học của các em học sinh. Để việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực phát huy được tính cần thiết và đạt hiệu quả cao, giáo viên cần đảm bảo những nội dung quan trọng sau. b.1. Những việc cần chuẩn bị cho bài giảng: - Sau mỗi tiết dạy, giáo viên phải nắm bắt được mức độ chiếm lĩnh tri thức của từng học sinh (tức là những em đã hoàn thành bài học và những em chưa hoàn thành bài) để từ đó giáo viên có những định hướng cụ thể khi xây dựng kế hoạch bài dạy tiếp theo cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Với từng bài và từng nội dung truyền đạt mới, giáo viên chuẩn bị kĩ những việc cần làm, xác định nội dung cần áp dụng phương pháp dạy học tích cực, xây dựng được mức độ kiến thức cần phải nhớ cũng như kĩ năng mà học sinh có thể vận dụng kiến thức. Trang 9 Em hãy tìm những câu hỏi và câu trả lời về các loài “quả” được nhắc đến trong bài hát. (Học sinh sẽ tìm được: - Quả gì mà chua chua thế? Xin thưa rằng quả khế. - Quả gì mà da cưng cứng? Xin thưa rằng quả trứng. - Quả gì mặc bao nhiêu áo? Xin thưa rằng quả pháo. - Quả gì mà gai chin chít? Xin thưa rằng quả mít. - Quả gì mà to to nhất? Xin thưa rằng quả đất) Giáo viên hỏi tiếp: - Trong các từ “quả” trên, từ “quả” nào là bộ phận của cây do bầu nhụy hoa phát triển mà thành, bên trong có chứa hạt ? (HS: quả khế, quả mít) Từ dùng để chỉ những vật có hình giống như quả cây ?(HS: quả trứng; quả pháo, quả đất). Học sinh trả lời xong, giáo viên dẫn dắt: - Vậy từ “quả” trong “quả khế”, “quả trứng”, “quả pháo”, “quả mít”, “quả đất” từ nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào dùng theo nghĩa chuyển cô mời các em tìm hiểu trong bài học hôm nay. Bằng cách này, tôi đã gây được sự chú ý tập trung của học sinh, ôn lại được kiến thức về nghĩa của từ đã học ở bài trước. Đồng thời còn tích hợp được với môn âm nhạc, rèn kĩ năng hát tập thể, tạo không khí học tập vui vẻ và kết hợp dẫn dắt để giới thiệu vào bài mới một cách hấp dẫn. Phương pháp 2:Vận dụng câu hỏi tìm tòi(vấn đáp, phát hiện), câu hỏi nêu vấn đề để tổ chức hoạt động hình thành kiến thức: Trước hết giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình tài liệu hướng dẫn học để xem bài dạy đó cần áp dụng các phương pháp dạy học tích cực như thế nào để học sinh dễ tiếp thu kiến thức nhất. Giáo viên bám chắc vào mục tiêu bài học và nội dung trọng tâm của bài để có thể xây dựng câu hỏi một cách lôgíc, hệ thống. Chính hệ thống câu hỏi này sẽ có tác dụng phát huy được tính chủ động, sáng tạo ở học sinh.Mọi đối tượng học sinh đều trả lời được. Với Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện): Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học tiếng Việt. Để học sinh nắm bắt chính xác nội dung kiến thức bài dạy, giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các em. Cần tổ chức việc trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa cô với cả lớp, giữa trò với trò, thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi phát hiện. Hệ Trang 11
File đính kèm:
- skkn_mot_vai_kinh_nghiem_ve_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tic.doc