Sáng kiến Kinh nghiệm tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm có hiệu quả môn Tiếng Anh THCS
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến Kinh nghiệm tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm có hiệu quả môn Tiếng Anh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến Kinh nghiệm tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm có hiệu quả môn Tiếng Anh THCS
Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương Kinh nghiệm tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm có hiệu quả môn Tiếng anh thcs a- Đặt vấn đề I- Cơ sở lí luận. Mục tiêu của môn tiếng Anh là nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những kiến thức kỹ năng cơ bản về tiếng Anh và những phẩm chất trí tuệ cần thiết để tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Vì vậy SGK tiếng Anh THCS mới từ lớp 6 đến lớp 9 đều được biên soạn theo cùng một quan điểm xây dựng chương trình, đó là quan điểm chủ điểm ( thematic approach) và đề cao các phương pháp học tập tích cực chủ động của học sinh. Có thể nói một trong những biểu hiện tích cực, đặc trưng của học sinh trong việc học tập bộ môn ngoại ngữ là học sinh có nhu cầu tiếp thu kiến thức, kĩ năng vận dụng để giao tiếp, biết cách làm việc theo cặp, nhóm hợp tác với bạn khi cần thiết trong quá trình luyện tập nói, viết biết chủ động trình bày những ý định của mình thông qua giao tiếp nói hoặc viết. Việc tổ chức luyện tập thành cặp không khó mà lại rất cần thiết để đạt được mục tiêu cuối cùng của các chương trình dạy ngoại ngữ là trang bị cho người học khả năng giao tiếp, trao đổi dễ dàng và trôi chảy bằng ngôn ngữ. lợi thế của loại hình bài tập này là việc tạo cho học sinh những cơ hội để luyện nói và giao tiếp gần giống ngoài đời thực. II – Cơ sở thực tiễn. ở hoàn cảnh Việt Nam chúng ta, lớp học thường đông học sinh , giờ học ngắn không đủ cho đại bộ phận học sinh tham gia đóng góp vào bài học. Trừ việc luyện đọc đồng thanh, trung bình mỗi học sinh trong lớp chỉ có tổng cộng 10- 15 giây để nói. Muốn tăng thời gian học sinh được luyện nói trong buổi học phải tổ chức hoạt động để tất cả đều được nói. 4 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương 5. Kinh nghiệm khi áp dụng hoạt động cặp, nhóm trong giảng dạy Tiếng Anh bậc THCS. V- Phương pháp nghiên cứu: 1. Phương pháp quan sát: Người thực hiện đề tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. 2. Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ người thực hiện đề tài, đồng nghiệp và người thực hiện đề tài tiến hành trao đổi, thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy. 3. Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên tiến hành dạy thực nghiệm theo từng mục đích yêu cầu cụ thể một số tiết dạy áp dụng hình thức hoạt động theo nhóm, cặp. 4. Phương pháp điều tra: Giáo viên đặt câu hỏi để kiểm tra đánh giá việc nắm nội dung bài học của học sinh. 6 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương Khi sử dụng loại hình bài tập này lần đầu tiên thì nên giải thích cho học sinh những ưu điểm và lí do sử dụng nó. Việc giải thích có thể thực hiện bằng tiếng mẹ đẻ của học sinh. Thêm vào đó, cần thống nhất với học sinh những nguyên tắc sau: 1. Làm bài tập luyện theo cặp không phải là thời gian để chuyện gẫu. 2. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của bài tập, học sinh có thể đổi vai và làm bài tập đó một lần nữa. 3. Nếu hết giờ và học sinh vẫn chưa làm xong thì cũng không có gì đáng lo ngại, vì quan trọng hơn cả là họ được thực hành luyện tập, chứ không nhất thiết là kết quả cụ thể của một nhiệm vụ nào đó. 5. Sau khi hết thời gian làm bài, nhất thiết giáo viên phải kiểm tra đánh giá kết quả những công việc học sinh vừa thực hiện theo cặp. 6. Tất cả mọi học sinh đều phải tham gia vào hoạt động này trong một cặp nào đó. Khi bị lẻ, học sinh đó có thể tham gia với cặp ngồi gần chỗ mình nhất. Nếu yêu cầu bài tập là trao đổi giữa hai người thì người thứ 3 ngồi theo dõi, sau đó tham gia trao đổi ở vòng luyện tập thứ hai với một trong hai người kia. 7. Họ có thể yêu cầu giáo viên giúp đỡ nếu cần. Trong khi học sinh thực hành hỏi- đáp, giáo viên phải bao quát và theo dõi lớp để nhận xét từng cặp, lắng nghe và sửa lỗi cho các em, lưu ý những cặp có học sinh yếu kém 1.3. Các bước tiến hành luyện tập theo cặp. Bước 1: Chuẩn bị Cần chuần bị hết sức cẩn thận thông qua việc giới thiệu và thực hành ngữ liệu, làm sao cho tất cả mọi người đều tự tin khi sử dụng ngoại ngữ. Sau bước giới thiệu và thực hành ngữ liệu nên lưu tất cả các thông tin lại trên bảng. Bước 2: Giáo viên làm mẫu với một học sinh Giáo viên cùng với một học sinh khá trong lớp đóng vai trò làm mẫu trọn gói một bài tập để cho tất cả học sinh hiểu được yêu cầu và biết cách thực hiện. Bước 3: Hai học sinh làm mẫu Gọi hai học sinh khá giỏi lên làm mẫu trước lớp một lần nữa. Nếu cho phép học sinh đứng tại chỗ thì phải yêu cầu học sinh nói đủ to cho cả lớp nghe được. Bước 4: Quy định thời gian 8 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương 2.3. Thực hành ngữ pháp Sau khi học sinh đã nắm được vấn đề ngữ pháp và đã được luyện tập thể ( bằng các bài tập nhắc lại hoặc chuyển đổi), chia học sinh thành từng cặp và yêu cầu các em trao đổi với nhau (chú ý chọn các chủ điểm gần gũi, quen thuộc ). Ví dụ, nói về chính bản thân mình hoặc những điều có thực liên quan đến cuộc sống của chính học sinh. Các từ gợi ý ở trên bảng vẫn là lí tưởng cho bài luyện tập này. 2.4. Kiểm tra không chính thức Việc kiểm tra thường xuyên cũng có tác dụng như giảng dạy. Khi cho phép học sinh cùng cộng tác để làm một bài kiểm tra, giáo viên có thể khuyến khích được việc học tập của các em vì những học sinh yếu sẽ được những học sinh khá hơn giúp đỡ. Thỉnh thoảng nên có một bài kiểm tra ngắn cuối giờ và sau đó cho điểm luôn. Bài kiểm tra đó không cần phải bao gồm toàn bộ những kiến thức học sinh vừa học trong bài mà có thể tập trung vào bất cứ khía cạnh nào của việc sử dụng ngôn ngữ. Yêu cầu của bài làm cần hết sức rõ ràng, viết câu mẫu lên bảng và khống chế thời gian để luyện cho học sinh khả năng phản ứng nhanh nhẹn, linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bài làm xong có thể được kiểm tra miệng hoặc các cặp đối chéo kiểm tra và chấm bài cho nhau. 2.5. Mô tả tranh Tranh ảnh có thể dùng như các yếu tố kích thích cho rất nhiều loại hình bài tập luyện theo cặp. Thí dụ, nhìn vào một bức tranh đi kèm với một bài đọc, một học sinh trong cặp tìm ra chỗ đúng sai trong tranh còn học sinh nêu lên ý kiến tán thành hay phản đối ( so sánh tranh với bài đọc ). Hoặc hai học sinh có hai tranh toàn cảnh giống nhau nhưng các chi tiết trong tranh thì khác nhau ( như vị trí đồ vật trong tranh, màu sắc, loại quần áo, hình dáng bề ngoài của người, ). Một học sinh tả các chi tiết trong tranh của mình còn người kia tìm ra những điểm khác biệt trong bức tranh thứ hai. 2.6. Tìm đầu đề cho bài đọc 10 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương dễ dàng hơn. Nên chỉ định hoặc hướng dẫn những học sinh có khiếu khẩu ngữ và hoạt bát hơn để làm việc này. Nhưng đôi khi cũng cần thay đổi: chọn một học sinh khá nhưng còn rụt rè để tạo điều kiện cho học sinh đó rèn luyện để trở nên mạnh dạn hơn. Hoặc cũng có thể để các thành viên trong nhóm lần lượt làm nhóm trưởng. Điều quan trọng là công việc này cần phải làm nhanh dứt khoát và học sinh phải được thông báo ngay ai là nhóm trưởng của họ để họ có thể bắt tay vào việc được, không bị lãng phí thời gian. Việc chia nhóm có thể bằng tiếng mẹ đẻ, nếu dùng tiếng Anh thì trước hết phải cho học sinh làm quen và hiểu được các mệnh lệnh như: “ The first row, turn and face the second. The third row, turn and face the fourth please. Now work in groups”. 3.1. Vai trò của giáo viên Giáo viên là người quản lí tất cả mọi hoạt động ở lớp học. Do vậy họ phải đặt kế hoạch cho nó, tổ chức nó, bắt đầu nó, theo dõi nó, canh chừng thời gian cho nó và kết thúc nó. Điều kiêng kị nhất là sau khi yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên về bàn ngồi hoặc làm việc riêng coi như vậy là xong việc. Nhất thiết giáo viên phải quản lí, theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ học sinh luyện tập. Giáo viên có thể đi từ nhóm nọ sang nhóm kia, kiểm tra xem học sinh có thực hiện đúng yêu cầu của bài tập hay không. Giáo viên cần phải tích cực và nhạy cảm với bầu không khí lớp học cũng như nhịp điệu làm việc của cả nhóm, ghi nhớ các lỗi lặp đi lặp lại trong học sinh để điều chỉnh lại bài dạy của mình sau này. Nếu nhận thấy đa số học sinh gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ của bài tập, nên dừng tất cả các nhóm lại, giải thích thêm yêu cầu của bài tập, về cấu trúc hay vấn đề ngữ pháp, hoặc cho cả lớp luyện lại vấn đề đó rồi mới lại tiếp tục làm việc theo nhóm. 3.2. Các loại hình luyện tập theo nhóm Các hoạt động theo nhóm có xu hướng tự do hơn và cũng mang tính giao tiếp tương hỗ nhiều hơn là các hoạt động theo cặp. Có nhiều hoạt động rất dễ thực hiện, ngay cả với những giáo viên ít kinh nghiệm nhất. • Trò chơi 12 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương Watch/ broken etc. Có thể dành một ít phút để học sinh tự nêu lên vấn đề thực sự mà học gặp trong cuộc sống của mình, và các bạn ở nhóm khác cho lời khuyên. Hoặc ngược lại, học sinh ở nhóm này đọc một số lời khuyên của mình còn học sinh ở các nhóm khác phải cố gắng đoán xem đó là các lời khuyên về vấn đề gì. • Đọc và viết chính tả Tại sao giáo viên lại luôn luôn phải là người đọc chính tả? Công việc này có thể giao cho một người trong nhóm đọc cho các thành viên khác. Tất nhiên nên chọn những đoạn văn ngắn và đã được họpc từ trước. Người đọc bài cũng có thể có trách nhiệm kiểm tra và sửa lỗi cho các thành viên khác trong nhóm. • Trò chơi đóng vai Sau khi cả lớp đã luyện tập một cấu trúc với một chức năng nào đó, trò chơi đóng vai có tác dụng rất tốt để củng cố những hiểu biết của học sinh về chức năng của cấu trúc đó trong những hoàn cảnh tự nhiện hơn. Thí dụ, có thể yêu cầu các nhóm đóng một cảnh trong đó một người phàn nàn muốn đổi một thứ quần áo mới mua hôm trước; hoặc thu lượm thông tin cho một kỳ nghỉ trọn gói, Với trò chơi đóng vai, các nhóm có thể dựng lên những vở kịch trong đó mỗi thành viên đóng một vai. Trong khi các thành viên trong nhóm đóng kịch, thư kí nhóm ghi chép vắn tắt các lời thoại để sau đó duyệt lại rồi cả nhóm sẽ trình bày trước lớp. • Tiên đoán Bài tập này thường dùng cho các học sinh ở trình độ tương đối cao. Trước khi đọc một bài khóa yêu cầu các nhóm đoán trước về nội dung của bài hoặc nghia từ vựng có thể gặp trong bài. Thí dụ như trước khi đọc một bài về nạn ô nhiễm học sinh có thể đoán trước được rằng bài đó sẽ nói đến các vấn đề có liên quan đến biển, rừng, các tài nguyên dưới lòng đất, khói từ ống xả xe hơi, xe máy 14 Nguyễn Tuấn Duy THCS Hoa Thám – Chí Linh- HảI Dương bảng, các bức tranh trêo tường hoặc các từ gợi ý. Thí dụ như mỗi nhóm nhận được một bức thư và họ phải cùng nhau trả lời bức thư đó. Học sinh phải biết rằng khi có khó khăn vướng mắc gì thì họ không thể tự do yêu cầu giáo viên giúp đỡ mà phải thông qua nhóm trưởng của mình. Đồng thời họ cũng phải ý thức được rằng tất cả mọi người trong nhóm đều phải đóng góp ý kiến xây dựng bài và sẽ đều được hưởng thành công của bài. Vai trò của các nhóm trưởng lúc này rất quan trọng. Họ phải biết lôi cuốn khuyến khích các thành viên trong nhóm đóng góp ý kiến. II/ Xác định thời điểm các loại bài tập nên cho học sinh làm việc theo cặp, nhóm. 1. Work in pair/ pair work. 1.1. luyện mẫu câu sau phần giới thiệu ngữ liệu mới và một vài phút luyện tập cho cả lớp ( Practise model sentences) Example: English 6 Unit 4: Big or Small C4: Listen and repeat. Page 50 Ba: What time is it? Lan: It’s eight o’clock. We’re late for school Listen and repeat and then role play: One is Ba, other is Lan. 1.2 Luyện các bài tập ngữ pháp theo mẫu câu. Example: English 7 Unit 4 A4: page 43 Look at the pictures. Ask and answer questions. S1: What is Lan studying? S2: Lan is studying Physics S1: What time does Lan have it? S2: She has her Physics class at 8.40 1.3 Luyện các bài hội thoại ngắn, đóng vai lại bài hội thoại mẫu với gợi ý cho sẵn ( practice short dialogues, make up similar ones using the prompts) Example: 16
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_hoat_dong_theo_cap_nhom_co_hie.doc