Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Ngữ văn là môn học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giáo dục, cũng như đối với đời sống và sự phát triển tư duy của con người. Mặc dù vậy, có một thực tế là rất nhiều học sinh thế hệ hiện nay không còn yêu thích, có hứng thú học tập môn ngữ văn; cũng như chưa ý thức được vai trò, ý nghĩa to lớn của môn học này. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính quá trình dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay: hoạt động dạy học ngữ văn, nhất là đối với các bài học có nội dung trọng tâm là truyền đạt kiến thức cho học sinh, dường như mới chỉ dừng ở những “kênh chữ”, một số bài có cung cấp thêm hình ảnh. Nhiều giáo viên mới chỉ tập trung bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa thực sự chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ, làm cho tiết học thêm sinh động. Những tiết học ngữ văn do vậy trở nên kém sinh động, hấp dẫn, thậm chí có phần nặng nề, không tạo được hứng thú, khơi dậy niềm say mê tìm hiểu, khám phá ở các em. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường hiện nay để nhằm vừa đảm bảo trang bị kiến thức, vừa tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn các em tích cực tham gia học tập, yêu thích môn ngữ văn là một yêu cầu bức thiết. Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng hình ảnh, màu sắc để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đó là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể được miêu tả như một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não người, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Bản đồ tư duy giúp cho học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn: việc sử dụng bản đồ tư duy để tiếp cận, mở rộng và hệ thống tri thức giúp các em khắc phục tình trạng học bài nào biết bài ấy, “học trước quên sau”; đồng thời biết liên kết các đơn vị - 1 - PHẦN 2: NỘI DUNG 2.1. Vận dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy và học Quá trình dạy và học trong nhà trường bao gồm hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Bản chất của hoạt động dạy - học là quá trình truyền thụ tri thức, kỹ năng của giáo viên và lĩnh hội, làm chủ các kiến thức, kỹ năng của người học thông qua bài dạy; những tri thức, kỹ năng đó được người học tiếp cận, ghi nhớ, vận dụng trong mỗi bài học, cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày. Chính vì lẽ đó, ghi nhớ là một yêu cầu, thao tác hết sức quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Việc tìm ra một phương pháp giúp ghi nhớ, khắc sâu tri thức một cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở cho mở rộng, sáng tạo tri thức có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học tập của học sinh. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, khối lượng kiến thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở nên “quá tải”, tạo ra áp lực không nhỏ đối với cả hoạt động dạy học của giáo viên lẫn việc học tập của học sinh: thời gian có hạn mà kiến thức phải học ngày càng nhiều; “sức học” của học sinh có hạn mà nhiều môn học đang trở nên “quá tải”; Điều này dẫn đến thực trạng nhiều học sinh cảm thấy ngại học, lười học; giáo viên không có điều kiện khắc sâu, mở rộng bài giảng vì phải tập trung “đối phó” với khối lượng bài dạy. Để giải quyết vấn đề trên, việc vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong quá trình dạy và học đang cho thấy những hiệu quả tích cực. Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy không chỉ giúp giáo viên và học sinh “đơn giản hóa” nội dung kiến thức của môn học, từ đó giải quyết vấn đề “quá tải” về mặt kiến thức; mà còn đem lại cho các em một cái nhìn tổng quát, đa chiều về nội dung bài học, từ đó có khả năng ghi nhớ, cũng như xâu chuỗi các kiến thức một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho việc học tập của các em không trở thành nhàm chán. - 3 - ngữ văn trở nhiều khi chỉ mang tính đối phó; các tiết học môn văn dường như đem đến những “áp lực”, nhàm . Thực tế trên đã dẫn đến nhiều “hậu quả” rất đáng suy ngẫm: không khó để nhận ra những lỗi sai cơ bản rất nhiều mắc phải trong quá trình tạo lập văn bản đơn giản như dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả, lôgic, bố cục; nhiều em bị hổng kiến thức văn học, cũng như hạn chế về năng lực tư duy ở mức đáng báo động, mà “minh chứng” là những bài văn “cười ra nước mắt” đã không còn là hiếm gặp hiện nay. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của người dạy, và cả những nguyên nhân thuộc về chính bản thân người học. Về phía người dạy, có thể thấy đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, có ý thức về chuyên môn; tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế: phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự “phù hợp” với tất cả các đối tượng học sinh, nhất là với một bộ phận học sinh có lực học kém, dẫn đến chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao; phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho việc đổi mới phương pháp, áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực còn nhiều thiếu thốn; một số giáo viên chưa thực sự “tâm huyết”, say nghề, có ý thức tìm tòi đào sâu kiến thức, làm phong phú và sinh động bài dạy; ngoài ra còn phải kể đến những bất cập trong cơ cấu, phân phối chương trình sách giáo khoa, cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc tiếp thu bài giảng của học sinh còn nhiều hạn chế. Về phía học sinh, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ văn. Một số em có phụ huynh đi làm xa, hoặc do bận công việc nên ít có điều kiện dành thời gian quan tâm, kèm cặp con em mình học tập; chưa kể có nhiều em ngoài giờ học trên lớp, còn phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, có thể thấy trong bối cảnh những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không - 5 - liên quan. Do đó khi xây dựng bản đồ tư duy, cần yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Vẽ ý tưởng trung tâm - Ý tưởng trung tâm là vấn đề chính mà chúng ta đang quan tâm tới. Để biểu diễn ý tưởng trung tâm, có thể vẽ một hình ảnh hoặc viết chữ (ngắn gọn) liên quan tới chủ đề được đề cập. Tuy nhiên, thông thường việc sử dụng hình ảnh có hiệu quả hơn, vì nó mang tính biểu tượng và có ưu thế vượt trội trong việc gợi mở các liên tưởng so với dùng từ ngữ. Bước 2: Vẽ các nhánh chính - Các nhánh chính là các ý tưởng lớn được phát triển trên nền tảng là chủ đề trung tâm. Nó có thể là những kiến thức mà chúng ta đã được học và cần ghi nhớ, hoặc có thể là các dạng bài tập và phương pháp làm bài tương ứng của dạng bài văn đó mà ta xét có liên quan tới chủ đề chính. Các nhánh chính có thể được vẽ theo nhiều cách khác nhau (tùy thuộc ý tưởng của mỗi cá nhân hay của nhóm) sao cho chúng mang tính gợi mở cao và hiệu quả nhất trong việc ghi nhớ; nói cách khác, việc vẽ các nhánh chính nên được để học sinh thoải mái sáng tạo một cách tự nhiên. - Trên các nhánh chính này là các từ khóa ngắn gọn và mang tính chất gợi ý. Khuyến khích các em vẽ thêm hình ảnh gì đó mang tính minh họa. Bước 3: Vẽ các nhánh thứ cấp - Đây là các nhánh được vẽ từ nhánh chính. Nó bổ sung ý cho nhánh chính. Chúng ta có thể vẽ thêm nhiều nhánh thứ cấp, tuy nhiên cần quan tâm tới không gian mà chúng ta được cung cấp. - Tương tự như nhánh chính, các chữ trên nhánh thứ cấp cũng là các từ khóa mang tính gợi nhớ, và có thể bổ sung hình ảnh để thêm phần sinh động. Nguyên lý quan trọng trong dạy học bằng bản đồ tư duy là nó dựa trên sự liên tưởng “ý này gợi mở ý kia” tạo ra không gian vô tận trong học tập và sáng tạo của học sinh. - 7 - lên bảng (giáo viên đưa ra những hỏi khác gợi ý để học sinh có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3). Sau khi học sinh vẽ xong, học sinh thuyết trình trước lớp; các em khác theo dõi, nhận xét, bổ sung nếu cần thiết. Cuối cùng, giáo viên sẽ nhận xét và cho điểm. Bản đồ tư duy bài “ Nói quá” – Ngữ văn 8 b) Sử dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ giảng dạy kiến thức mới Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả, yêu cầu giáo viên cần thực hiện việc chuẩn bị từ trước một cách kỹ lưỡng. Từ nội dung bài học, giáo viên “mô hình hóa” dưới dạng một bản đồ tư duy rồi vẽ trên máy (nếu dạy bằng giáo án điện tử) hoặc trên giấy A4 (nếu dạy giáo án thường). Khi lên lớp, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của bài học (mỗi nội dung được biểu đạt tương ứng với một nhánh con của bản đồ tư duy). - 9 - + Bố cục của văn bản: Học sinh dựa vào văn bản để xác định các ý chính (hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả,...) + Tiếp tục hoàn thành các nhánh của bản đồ tư duy bằng cách trả lời hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao,...). Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét về kết quả của cách xem voi phiến diện; sau đó khái quát thành bài học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng - 11 - Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6 Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước, giáo viên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, giúp học sinh tự phát hiện dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ tư duy, giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn, Cứ như vậy cho đến khi kết thúc giờ học cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động thông qua bản đồ tư duy. Sau khi hoàn thiện bản đồ tư duy, học sinh chỉ cần nhìn vào đó là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học; đồng thời xác định được các ý chính, ý phụ, để từ đó có kế hoạch học tập hiệu quả. Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo nội dung tiết dạy và thời gian, giáo viên còn có thể cho học sinh xây dựng bản đồ tư duy thông qua phương thức thảo luận nhóm theo các bước sau: - Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm với sự gợi ý của giáo viên. - Đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy của nhóm mình. - 13 - - 15 - Bản đồ tư duy bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt”- Ngữ văn 6 c) Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố, hệ thống kiến thức Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ bằng cách vẽ bản đồ tư duy trên giấy A4 hoặc trên bảng. Sau đó giáo viên yêu cầu một vài em lên bảng thuyết minh lại theo bản đồ tư duy của mình những kiến thức đã tiếp thu được và cho những học sinh khác nhận xét, rút kinh nghiệm. Thực hiện bản đồ tư duy như vậy sẽ giúp cho giáo viên nắm được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, và học sinh cũng nắm vững kiến thức và nhớ lâu hơn. - 17 - Bản đồ tư duy bài “Phương pháp tả cảnh”- Ngữ văn 6 Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Ngữ văn 9), giáo viên định hướng cho học sinh khai thác kiến thức của bài học thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho các em bằng bản đồ tư duy. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm: a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác... b. Tác phẩm: + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm gồm cả thơ và truyện) + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên giúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam, + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ) + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá trị nghệ thuật của truyện. - 19 -
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_doi_moi_ph.doc