Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy một bài ngữ pháp dễ hiểu
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy một bài ngữ pháp dễ hiểu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy một bài ngữ pháp dễ hiểu
PHƯƠNG PHÁP DẠY MỘT BÀI NGỮ PHÁP DỄ HIỂU I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay đất nước ta đang trên đà phát triển hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của nước ta và để đạt được mục tiêu đó ta cần phải có chìa khoá tiếp cận với nền kinh tế của các nước. “Tiếng Anh” chính là chìa khoá đó. Nó là một công cụ tạo điều kiện hoà nhập với cộng đồng quốc tế và khu vực, tiếp cận những thông tin quốc tế và khoa học kỹ thuật khám phá các nền văn hoá khác cùng với những sự kiện quốc tế quan trọng. Hiểu được tầm quan trọng của bộ môn, tôi đã rất nỗ lực trong quá trình giảng dạy nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc để tháo gỡ, sao cho giúp được học sinh có nhiều tiến bộ trong việc tiếp thu ngôn ngữ. Tôi nhận thấy rằng: mục đích cuối cùng của việc duy trì việc dạy và học ngoại ngữ là hiểu được thông tin và biết truyền đạt thông tin đầy đủ đến cho người nghe. Trong giao tiếp điều đó hết sức quan trọng nó khẳng định người nói có nắm bắt, làm chủ được ngôn ngữ mình nói hay không. Muốn đạt được điều này đòi hỏi người học ngoại ngữ phải nắm bắt được 4 kỹ năng; nghe, nói, đọc, viết, và để thành thạo 4 kỹ năng, người học phải nắm chắc được ngữ pháp cơ bản, thành thạo ngữ pháp thì mới nghe được đọc được, viết được và nói được.Trongquá trình giảng dạy , tôi thấy phần lớn khối lượng bài ngữ pháp (P.P.P) là chiếm nhiều hơn cả. Truyền đạt kiến thức mới không rõ ràng, dễ hiểu thì sẽ khiến cho học sinh không hiểu bài và gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hành đặc biệt là phần “Production” học sinh không thể tự nói hoặc viết được, điều này cũng dẫn đến việc khai thác kiến thức với sách giáo khoa và bản thân còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, việc không hiểu cấu trúc mới hay sự hiểu sai còn ảnh hưởng rất nhiều đến không khí lớp học, lớp học sẽ chầm đi, ít sôi nổi hơn và giảm đi sự say mê của học sinh đối với bộ môn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi nhận thấy vai trò của người thầy trong việc dẫn dắt, giảng giải kiến thức mới sao cho gần gũi dễ hiểu cũng như sự khuyến khích, tạo động lực cho học sinh là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy mà tôi quyết định chọn đề tài này nhằm giúp cho việc học của các em được tốt h 1 II.1. Thực trạng vấn đề: II.1.1. Sơ lược về trường THCS Mạo Khê 2: Trường THCS Mạo Khê II thuộc thị trấn Mạo Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Nguyên là Trường cấp II Vĩnh Khê thành lập năm 1959. Vào đầu những năm 70 nhà trường sát nhập với trường tiểu học Vĩnh Khê mang tên là trường PTCS Vĩnh Khê. Đến năm 1995 trường được tách riêng thành hai trường: Trường tiểu học Vĩnh Khê và Trường THCS Mạo Khê II. Qua 50 năm xây dựng và trưởng thành nhà trường đã đạt được những thành tíchđáng kể, góp phần phát triển giáo dục ở địa phương.Đội ngũ giáo viên không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ đào tạo và tay nghề, số giáo viên giỏi, học sinh giỏi luôn luôn đạt ở mức cao, tỷ lệ học sinh lên lớp, tốt nghiệp và trúng tuyển vào trường THTP Hoàng Quốc Việt, các trường chuyên của tỉnh, quốc gia giữ vững ở tỷ lệ cao. Cơ sở vật chất thiết bị ngày càng được cải thiện, từng bước hoàn thiện theo quy mô trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2. Với những cố gắng đó nhiều năm liên tục nhà trường đạt được danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc của Tỉnh, của Bộ; Liên đội nhà trường nhiều năm liên tục được Trung ương đoàntặng bằng khen và cờ liên đội xuất sắc mang chân dung Bác.Trường được tặng nhiều bằng khen của tỉnh, của Bộ giáo dục & Đào tạo và của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1994 trường được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng ba, năm 2000 Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng nhì, năm 2007 trường được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, năm học 2007 - 2008 trường được nhận cờ” dẫn đầu phong trào thi đua khối THCS trong toàn tỉnh”. Trường là một trong hai trường đầu tiên của tỉnh được công nhận trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2000 - 2010, đang chuẩn bị điều kiện để đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2Trường THCS Mạo Khê II có hơn 1000 học sinh chia làm 28 lớp theo các khối 6,7,8,9 mỗi khối 7 lớp, địa phương trường đóng là một thị trấn có nền kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân ổn định, nhân dân và các lực lượng xã hội luôn quan tâm tới phát triển giáo dục. Những vấn đề lớn nhà trường quan tâm là duy trì chất lượng đại trà hàng năm đã đạt: Tốt nghiệp 99 - 100%. Lên lớp 98% giữ vững chất lượng mũi nhọn 8 - 10% học sinh đạt học sinh giỏi các cấp hàng năm. Cấp huyện 30 - 40 em (lớp 9); Tỉnh 3 II.2. Áp dụng trong giảng dạy: II.2.1. Các bước tiến hành Khi nhận phân công dạy Tiếng Anh lớp 6A1,A2, trường THCS Mạo Khê 2 dưới sự chỉ đạo của trường tôi đã điều tra và thu được một số kết quả như sau: Lớp Sĩ số Nữ Giỏi Khá TB Yếu Kém A2 45 25 12% 31,8% 37,5% 12,3% 6,4% A1 45 20 23,6% 38,6% 32,4% 5,4% 0 Một nửa số học sinh là con gia đình cán bộ công nhân, số còn lại là con của gia đình làm nghề tự do hoặc làm ruộng. Trong thực tế học sinh hay coi nhẹ giờ ngữ pháp cho đó là công viêc hoàn toàn của giáo viên, có thói quen ỷ lại, không tự giác luyện tập sáng tạo, đặc biệt là phối hợp các kĩ năng còn hạn chế. Để tiết học đạt kết quả cao, trường THCS Mạo Khê 2 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hiệu trưởng chúng tôi thường xuyên được dự giờ thăm lớp theo từng loại bài, từ đó thống nhất cách tổ chức hoạt động của HS khi lĩnh hội kiến thức cũng như vận dụng, rèn luyện khả năng cho phù hợp với nội dung, thời gian và điều kiện học tập đặc biệt là khả năng học tập của học sinh. II.2.2. Bài dạy minh họa *Các bước tiến hành thực nghiệm * Bước 1 Dự giờ: Unit 5 - lesson : A5 + 6 (Grade..) + Mục tiêu: Thực hành câu hỏi Yes/No questions thì hiện tại đơn - Giáo viên giới thiệu một số từ mới liên quan đến bài đọc và sử dụng thủ thuật “ Rub out and Remember” để kiểm tra: Play volleyball, football, Sports. - Tiếp đến giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm hội thoại và gợi ý đưa ra câu mẫu Do/Does you/he play volleyball? - Giáo viên giải thích mẫu câu qua một vài câu hỏi Do/Does là gì? -> Trợ động từ you/he là gì? -> chủ ngữ play? -> động từ Học sinh sử dụng câu này để làm gì? Sau đó viết mẫu câu Do/does + S + V? 5 - Giáo viên “Run through the pictures” làm mẫu và yêu cầu học sinh thực hành theo cặp. - Thủ thuật “Survey” áp dụng cho phần Production. - Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm sau đó giáo viên hướng dẫn cách làm. * Yêu cầu : học sinh phải học tập sôi nổi chủ động sử dụng ngôn ngữ, thành thạo mẫu câu cần thiết trong bài. * Nhận xét: Lớp học có cải thiện hơn không khí lớp học sôi nổi hơn, và thực hành mẫu câu có tiến bộ và tự nhiên hơn. Giáo viên sử dụng thủ thuật hợp lý và lời giải thích mẫu câu cũng đơn giản và dễ hiểu. Tuy nhiên cũng cón một vài chỗ chưa hợp lý, mất nhiều thời gian vào phần đó, làm cho bài giảng bị ngắt quãng. Ở phần “Survey” Giáo viên chia nhóm trước dẫn đến việc học sinh ồn ào tập trung theo nhóm mà không chú ý hay không nghe rõ lời hướng dẫn của giáo viên. * Bước 2: Nhận xét và rút kinh nghiệm. Qua 2 giờ dạy của đồng nghiệp theo đặc điểm bộ môn + Giờ một: Do lời hướng dẫn, giải thích mẫu câu chưa rõ ràng còn sử dụng nhiều ngôn từ quá cụ thể của bộ môn khiến học sinh khó hiểu ảnh hưởng đến kết quả của các phần thực hành trong bài. Chưa phân tích rõ kiến thức để cung cấp từ vựng cho học sinh trong quá trình thực hành “ Cues”. Không khí lớp học còn trầm + Giờ hai: áp dụng thủ thuật phù hợp để đưa ra mẫu câu, lời giải tích đơn giản hơn, dễ hiểu hơn, không khí lớp học cũng được cải thiện. Những cách thức hướng dẫn và chia nhóm khi thực hành chưa phù hợp dẫn đến kết quả vẫn còn bị hạn chế. * Bước 3: Nhận xét chung Giáo viên chưa biết cách lựa chọn ngôn từ, lời giải thích mẫu câu còn dài dòng khó hiểu. Chưa phân tích kỹ “Cues” để cung cấp kiến thức cho học sinh. Thực hành, không lường trước được những khó khăn học sinh gặp phải. Chưa khuấy động được phong trào học tập của học sinh, cách thức hướng dẫn và chia nhóm chưa phù hợp dẫn đến kết quả chưa đạt được như mong muốn. Qua dự giờ rút kinh nghiệm giờ dạy của đồng nghiệp và những kinh nghiệm có được của bản thân, tôi nhận thấy rằng muốn tạo ra được một giời dạy ngữ pháp dễ hiểu, có hiệu quả thì mỗi giáo viên và học sinh cần làm tốt những vấn đề sau: * Đối với giáo viên: Nên khơi dậy không khí học tập ngay từ đầu bằng những hình thức tổ chức lớp học khác nhau, có thể là những trò chơi vừa là để kiểm tra kiến thức cũ, vừa có thể giới thiệu nội dung chủ đề bài học. Nên giới thiệu mẫu câu theo ngữ cảnh, 7 * Hình thức tổ chức: Học sinh làm việc theo đội (2 độ O – X). Học sinh của hai đội lần lượt chọn từ trong ô để đặt câu với mẫu câu: There is/ There are. Mỗi một câu đúng sẽ được 10 hoặc 1x. Đội nào đạt được 30 hoặc 3x thẳng hàng ngang, dọc, chéo đội đó sẽ thắng. - Tiếp đến phần “ Presentation Text”. Nhằm giới thiệu cấu trúc và ngữ cảnh, tôi đã vẽ 2 nhân vật và giải thích. Mai Tùng Mai và Tùng đang nói chuyện về ngôi nhà mới của một người bạn Tôi đã đọc bài “Text”, và yêu cầu học sinh nhắc lại. Tôi gợi ý để đưa ra mẫu câu: Mai sử dụng câu hỏi nào để biết về số lượng cửa chính. Từ đó học sinh đưa ra được mẫu câu: How many doors are there? There is one - Tiến hành giải thích mẫu câu, tôi tuân thủ 4 bước: Check meaning - > check form -> cheek use -> check pronunciation - Tôi yêu cầu học sinh dịch câu mẫu sang tiếng việt và sử dụng những câu hỏi lựa chọn để giải thích: Cụm từ “ How many” dùng để hỏi về nơi chốn, thời gian hay số lượng, sau “How many” từ “doors” là danh từ số ít hay số nhiều và tiếp đến là cụm từ are there?. ở câu trả lời “ There is one” one là 1 vậy ta sử dung “ There is” hay “ There are” Bây giờ tôi muốn hỏi có bao nhiêu cái ghế tựa thì tôi thay thế từ nào trong câu hỏi? Có 2 cách “ Câu trả lời sẽ là “there is” hay “there are”. Ta dùng câu hỏi này để hỏi với số lượng hay nơi chốn. Tiếp đến, tôi yêu cầu học sinh nghe giáo viên đọc câu để nhận xét về ngữ điệu. Lời giải thích rõ ràng, dễ hiểu đặc biệt là hệ thống câu hỏi lựa chọn đã rất có hiệu quả giúp học sinh hiểu và biết cách áp dụng cấu trúc. Lường trước được những khó khăn của học sinh và giúp học sinh luyện tập có hiệu quả, ở phần “Practice” tôi sử dụng “ Picture cues” áp dụng 2 bức tranh trong sách giáo khoa, 1 về phòng học, 1 về phòng khách trong nhà. Tôi vẽ to 2 bức tranh, trong 2 bức tranh có rất nhiều đồ đạc do vậy tôi đã đánh số những đồ đạc cần luyện tập nhằm tập trung sự chú ý của học sinh. Những từ vựng luyện tập đã được nhắc lại ở phần “ Warm up” do đó các em dễ dàng đọc được tên các đồ vật. - Khắc sâu thêm trí nhớ về các đồ vật và cũng để thuận lợi cho việc thực hành, tôi đã “run throung the pictures” qua các câu hỏi: what is this? what are these? sau 9 How manyare there? Hình thức hoạt động theo nhóm đã giúp học sinh có nhiều cơ hội sử dụng Tiếng Anh trong lớp qua đó các em có thể cảm thấy tự tin và mạnh dan hơn trong giao tiếp. II.3 Phương pháp nghiên cứu và kết quả sau thực nghiệm II. 3 . 1 Đặc điểm bộ môn và phương pháp nghiên cứu Do việc học ngoại ngữ là sự bắt chước những gì người ta làm từ những từ đơn giản, thông dụng đến những từ khó ít gặp, ít dùng. Từ câu nói đơn giảng đến câu nói phức tạp, từ tình huống cụ thể thường gặp hàng ngày cách giao tiếp và sử dụng từ sao cho đúng câu, đúng mục đích. Học ngoại ngữ là phải luyện 4 kỹ năng ngay từ những bài học đầu tiên, học ngoại ngữ đòi hỏi rất cao. Đòi hỏi người hoc phải thực sự yêu thích bộ môn, có ý thức rèn luyện phát triển ngôn ngữ trên mọi lĩnh vực. Học phải gắn liền với thực hành. Tự nhiên, thoải mái, thực hành nhiều lần thì mới đạt kết quả như mong muốn. Để đạt được kết quả trên những yêu cầu mà đặc điểm bộ môn đề ra thì người giáo viên phải thực sự là người tổ chức hướng dẫn, giúp đỡ. để học sinh có nhiều hình thức hoạt động phong phú, có nhiều cơ hội phát triển những kỹ năng cần thiết. Nắm được những yêu cầu của bộ môn, và để tìm ra được biện pháp tối ưu, tôi đã thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp, nhất là các đồng chí cùng khối tập trung vào các bài khó, cùng phán đoán những tình huống có thể xảy ra, lường trước được những khó khăn của học sinh để chuẩn bị dự phòng phương án giải quyết. Chịu khó dự giờ thăm lớp nhằm rút ra những ưu khuyết điểm để cải tiến phương pháp, hình thức giới thiệu kiến thức mới. Nhận xét đánh giá qua sự làm việc và chất lượng của học sinh II. 3.2 Kết quả sau thực nghiệm Do có sự thu hút lôi cuốn vào bài ngay từ đầu giờ, học sinh đã có hứng thú học tập sôi nổi, sự xuyên suốt kiến thức, logic giữa các phần cùng với việc hướng dẫn giải thích, làm mẫu rõ ràng, cẩn thận, các thủ thuật phối hợp bổ trợ cho kiến thức mới, nên giờ học ngữ pháp thực sự có hiệu quả. Học sinh hiểu bài, áp dụng thành thạo mẫu câu trong mọi tình huống, mạnh dạn, tự tin và chủ động tham gia vào các hoạt động một cách sôi nổi. Từ nhận thức phải dạy thật tốt, luyện thật kỹ giúp học sinh có kiến thức học tập. Kết quả môn Tiếng Anh năm học 2008 – 2009 do tôi dạy đạt được như sau: 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_mot_bai_ngu_phap_de_hi.doc