Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS

doc 31 trang sklop6 16/04/2024 970
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS
 MỤC LỤC
A- Phần thứ nhất Đặt vấn đề 
1 Lý do chọn đề tài :...................................................................................................2
a. Cơ sở lí luận: ..........................................................................................................2
b.Cơ sở thực tiễn: ......................................................................................................2
2.Mục đích nghiên cứu: ............................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu: ...........................................................................................3
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài: ..................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................................4
B- Phần thứ hai: Những biện pháp giải quyết vấn đề.
I- Thực trạng vấn đề: ..................................................................................................4
II- Các giải pháp .......................................................................................................9
III- Kết quả: .............................................................................................................27
C- Phần thứ ba: Kết luận và khuyến nghị.
I- Ý nghĩa của đề tài: ...............................................................................................28
II- Bài học kinh nghiệm: ..........................................................................................28
III- Ý kiến đề xuất khuyến nghị: ..............................................................................29
D. Phần thứ tư: Tài liệu tham khảo. ....................................................................31
 1 số văn bản trong chương trình ngữ văn THCS để đồng nghiệp cùng tham khảo, góp 
ý kiến cho việc dạy- học của chúng ta ngày càng tốt hơn.
 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
 Đưa ra giải pháp để lựa chọn và sử dụng tốt đồ dùng trực quan khi dạy một số 
văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS nhằm góp phần nhỏ trong việc nâng cao 
chất lượng bộ môn Ngữ văn.
 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
 Để đạt được mục đích trên tôi đề ra nhiệm vụ cụ thể như sau:
 + Nghiên cứu lý thuyết: Cơ sở lí luận của việc lựa chọn và sử dụng đồ dùng 
trực quan trong bộ môn ngữ văn THCS.
 + Nghiên cứu thực tiễn: Thực trạng của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong 
bộ môn ngữ văn THCS.
 + Đưa ra giải pháp thực hiện để thấy được tác dụng của việc sử dụng đồ dùng 
trực quan khi dạy một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS.
 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
 Kinh nghiệm lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy một số văn bản 
trong chương trình ngữ văn THCS tại trường. 2 năm học 2016-2017 và 2017-
2018.
 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
+ Phương pháp 1: Nghiên cứu lí thuyết: Tập hợp, phân loại , xử lí các văn bản, các 
loại tài liệu liên ngành Ngữ văn; liên môn; SGK;SGV
+ Phương pháp 2: Điều tra, khảo sát thực tế: Thông qua dự giờ, thao giảng, sử 
dụng phiếu trắc nghiệm, phỏng vấn học sinh.
+ Phương pháp 3: So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
 3 đối tượng quan sát . Nghĩa là vai trò của dồ dùng trực quan đó chỉ là minh họa cho 
lời của giáo viên vừa giảng hoặc cho kiến thức học sinh đã lĩnh hội. Khiến cho giờ 
học trở nên gượng ép, áp đặt. Tất nhiên điều đó sẽ xẩy ra khi họ quá "máy móc" sử 
dụng các phương tiện trực quan. Thậm chí nếu quá lạm dụng sẽ làm phân tán tư 
tưởng, học sinh chỉ tập trung vào bàn luận một hình ảnh trực quan nào đó mà không 
tập trung khai thác nội dung bài. Vì vậy nếu vận dụng không đúng cách thì nó 
không còn là một giờ dạy văn thật sự nữa.
 Đặc thù riêng của bộ môn Ngữ văn là tư duy bằng hình tượng nghệ thuật, chính 
ngôn ngữ, câu, từ trong văn, thơ là trực quan hết sức phong phú và sinh động nếu 
chúng ta biết "gõ vào trí thông minh"(Phạm Văn Đồng) của học trò. Thơ, văn là 
những " nốt trầm xao xuyến", là bức họa bằng ngôn ngữ, là thông điệp về tình 
người, là sự hi sinh thầm lặng cao cả, là tấm lòng nhân ái bao la, sự cảm thông, chia 
sẻ là tất cả những cung bậc của tình người...mà nhà văn, nhà thơ đã tái hiện lại 
cuộc sống rồi gửi gắm vào tác phẩm một cách chân thực, sinh động và thuyết phục
 Chẳng hạn như trong văn bản " Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng (SGK 
Ngữ văn 9 tập 1). Lúc anh Sáu về nhà bé Thu không nhận cha vì vết thẹo dài trên 
má. Tình cảm cha con tưởng chừng như không hình thành được(mặc dù anh Sáu đã 
rất cố gắng). Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm 
thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Tiếng bé Thu gọi ba cùng cử chỉ " Chạy xô tới , 
nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, rồi 
nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa" . Bé Thu 
không chịu cho ba lên đường đi xa vì em đã hiểu nguyên nhân mặt ba có vết thẹo . 
Đó mãi mãi là hỉnh ảnh cảm động của tình cha con giữa thời máu lửa. Giây phút giã 
biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi đau từ câu chuyện đã cứa một nhát dao tê tái vào 
lòng người đọc. Thế nhưng có giáo viên khi dạy đến chi tiết này đã đưa ra một bức 
tranh có hình ảnh một người đàn ông mặc quân phục đứng ôm một đứa trẻ vào 
lòng. Rồi giới thiệu đó là ông Sáu và bé Thu. Dù bức tranh có được in màu đẹp, 
 5 Một đồng nghiệp đã kì công gửi mua được cốm ở Hà Nội về mục đích là cho học 
sinh "mục sở thị"(vì học sinh miền trung du có ít em biết đến thức quà này). Giờ 
học sôi nổi hẳn khi giáo viên đưa chiếc đĩa đựng đầy các hạt cốm ra và đi từng bàn, 
từng bàn giới thiệu, các em học sinh hào hứng thò tay, có em cho vào miệng nếm 
thử rồi nhiều bàn tay bỏ vào đĩa cốm và chỉ trong chốc lát sàn lớp vương vãi đầy 
cốm là cốm. Giờ học trở thành giờ bàn luận của các em học sinh về một món ăn mà 
các em chưa bao giờ được biết .Tệ hại hơn các em còn nhận xét hương vị của cốm 
không ngon. Ông Thạch Lam miêu tả không chính xác...Tiết học có "sôi nổi" thật, 
song sự công phu của giáo viên cùng với sự vận dụng không khéo léo đã làm mất 
giá trị của một thức quà đặc biệt là giá trị văn hóa truyền thống của người Hà Nội 
trong mắt con trẻ chúng ta. Như vậy việc sử dụng trực quan của giáo viên này là 
chưa có hiệu quả vì nó chỉ mang ý nghĩa giới thiệu vật chất mà ý nghĩa tinh thần 
ở trong văn bản này chưa được khai thác.
 Còn rất nhiều lần tôi đã chứng kiến nhiều đồng nghiệp khi dạy các văn bản đưa ra 
các chi tiết hình ảnh trong một văn bản nào đó rồi yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa . 
Phần giáo viên đã chuẩn bị những ý trả lời vào bảng phụ hoặc công phu hơn thì 
đánh máy và in phóng to ra trên khổ giấy lớn. Sau khi hỏi học sinh hoặc đại diện 
nhóm trả lời xong giáo viên treo bảng phụ lên và chỉ đây là ý cơ bản, và đúng cho 
câu hỏi cô vừa nêu rồi yêu cầu học sinh đọc lại toàn bộ thông tin đó. Đồng thời giáo 
viên thao tác gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng rồi nói "các em nắm cho cô 
những ý cơ bản này" . Như vậy không những là minh họa cho kiến thức cô vừa 
khai thác mà còn biến từ "đọc-chép" sang "nhìn - chép".
 Với việc dùng phương tiện dạy học như thế này đã vô tình biến học sinh là "bình 
chứa" là người "nhận hàng" thầy là người "gói hàng", "giao hàng" là người "rót 
kiến thức" vào bình. Học sinh với nhu cầu khát vọng và những đặc điểm tâm lý, 
nhận thức riêng chưa được quan tâm, mối quan tâm của giáo viên là văn bản vì thế 
 7 "hồn ma" của người bà, rồi trầm trồ khen ai đó thiết kế được bức tranh tài tình. Quả 
thật rất đáng buồn khi trong giờ dạy người giáo viên không khéo léo xử lí những 
tình huống sư phạm, hoặc chọn lựa đồ dùng dạy học hợp lí thì giờ học sẽ không mất 
đi giá trị biểu đạt của văn bản.
 Khi sử dụng phượng tiện trực quan, học sinh ngoài việc sử dụng thính giác để 
nghe thì các em còn huy động thêm thị giác để thu nhận thông tin. Song việc sử 
dụng phương tiện trực quan như tôi đã trình bày khi dạy một số văn bản như trên 
thì việc lĩnh hội tri thức của học sinh vẫn là thụ động, học sinh chỉ cần nghe, nhìn 
và chấp nhận sự điều khiển của giáo viên mà ít phải động não, suy nghĩ. Cho nên 
cách sử dụng các phương tiện trực quan như vậy vẫn là cách dạy thụ động.
 Từ những thực trạng mà tôi đã dẫn ra một số dẫn chứng cụ thể ở một số văn bản 
như trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp khắc phục nhằm 
nâng cao chất lượng bộ môn như sau:
 II- GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC:
 1- LỰA CHỌN ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN:
 Tác phẩm văn học là "con đẻ" tinh thần của nhà văn, được nhà văn sáng tạo bằng 
nghệ thuật ngôn từ. Nhà văn tái hiện lại mọi khía cạnh của cuộc sống xung quanh 
chúng ta vì thế văn học rất gần gũi với đời sống của mỗi một người. Bởi vậy, người 
dạy phải có những rung cảm thật sự bằng ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ phù hợp để định 
hướng cho các em xây dựng những hoạt động đúng đắn về tác phẩm văn học .Trong 
quá trình chuẩn bị tiết dạy, việc lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp và dự đoán 
những tình huống sư phạm có thể xẩy ra cũng là khâu quan trọng không kém khâu 
sử dụng:
- Trước hết người hướng dẫn phải nghên cứu , nhận xét về chất lượng, giá trị của 
trực quan trước khi sử dụng.
 9 Trong quá trình sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên không truyền đạt để cung cấp 
kiến thức cho học sinh mà chỉ là người hướng dẫn cho các em tự phát hiện kiến 
thức từ đối tượng quan sát. Lúc này đối tượng quan sát không phải là phương 
tiện minh họa kiến thức nữa mà là nguồn gốc của kiến thức. 
 2.1: Trực quan bằng cách dùng tranh ảnh chân dung, địa danh:
 Thật vậy , Tranh ảnh chân dung, địa danh, hay hình ảnh liên quan đến văn bản, một 
văn bản chữ Hán,..mỗi một đồ dùng trực quan đều chứa đựng một lượng thông tin 
rất lớn. Nguồn thông tin đó được khai thác nhiều hay ít là tùy thuộc vào người quan 
sát nó. Khi cho học sinh quan sát một đối tượng, trước hết giáo viên phải lựa chọn 
một đối tượng phù hợp làm sao từ đối tượng đó học sinh có thể vừa quan sát vừa 
khai thác tri thức cùng với sự dẫn dắt khéo léo của người giáo viên bằng một hệ 
thống câu hỏi lôgic các em sẽ tích cực suy nghĩ để khai thác nội dung bài học.
 Chẳng hạn như trong văn bản " Đồng chí "của Chính Hữu (SGK ngữ văn 9 tập 1)
Ngoài việc giới thiệu chân dung của nhà thơ Chính Hữu giáo viên có thể sử dụng 
những hình ảnh quen thuộc về người nông dân, con trâu cày ruộng, gian nhà tranh, 
giếng nước, gốc đa ( Có thể dùng Power point càng tốt ) để có thể vừa yêu cầu học 
sinh đọc khổ thơ vừa trình chiếu.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
 11 
 Ảnh chụp Côn Đảo từ trên cao Côn Đảo trên bản đồ Việt nam(góc dướ phía phải 
 Những tù nhân Côn Đảo Tù nhân bị lao động khổ sai 
Dãy chuồng cọp mà bọn thực dân dùng để nhốt tù nhân Tù nhân bị nhốt ở chuồng cọp 
Từ việc quan sát những bức tranh trên giáo viên có thể đặt câu hỏi để học sinh khai 
thác kiến thức
 13

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_lua_chon_va_su_dung_do_dung_truc_quan.doc