Sáng kiến Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh Lớp 6 làm bài văn tả cảnh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh Lớp 6 làm bài văn tả cảnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh Lớp 6 làm bài văn tả cảnh
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH –––––––––––––––––––––––– SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6 LÀM BÀI VĂN TẢ CẢNH” Môn: Ngữ văn Tác giả: Nguyễn Thị Thuỷ Chức vụ: Giáo viên Văn NĂM HỌC: 2019-2020 MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1 I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ. 1 1.Cơ sở lí luận. 1 2.Cơ sở thực tiễn. 2 II. MỤC ĐÍCH VIẾT SKKN. 3 III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG. 3 B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN. 4 I. KHẢO SÁT THỰC TẾ. 4 1.Tình hình thực tế khi chưa thực hiện đề tài. 4 2.Số liệu điều tra trước khi thực hiện. 5 II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. 5 III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN . 33 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 35 1. Kết luận. 35 2. Đề xuất và khuyến nghị. 35 2 cánh đồng, mái trường... và rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước trong tâm hồn các em nên tôi đã xây dựng đề tài “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh”. Trong quá trình xây dựng đề tài này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn cùng các đồng nghiệp trong nhóm. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và áp dụng. - Đối tượng: Học sinh lớp 6C, 6D Trường THCS Lương Thế Vinh. - Đề tài được áp dụng thực hiện trong năm 2019-2020 4 II. Những biện pháp thực hiện. 1. Về phía giáo viên Để thực hiện thành công đề tài nay theo tôi mỗi giáo viên cần phải tuân thủ đầy đủ tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học đó là: - Khởi động. - Hình thành kiến thức mới. - Luyện tập. - Vận dụng. - Tìm tòi, mở rộng. Ngoài ra trong giờ học giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học truyền thống kết hợp linh hoạt với các phương pháp giảng dạy mới. Giáo viên và học sinh đều cần phải chuẩn bị kỹ trước khi đến lớp. Trong mỗi giờ học, người giáo viên sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức bằng cách thông qua các hoạt động học tập. Đối với mỗi hoạt động thầy là người khởi xướng, tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh tự tìm hiểu bài mới để tự học, tự nghiên cứu. Điều đó không có nghĩa thầy là chủ thể giữ đặc quyền cung cấp kiến thức, đánh giá hoàn toàn dẫn tới học sinh là phụ chỉ thụ động ghi chép học thuộc bài, lặp lại những điều đã nghe, hoặc có trong sách giáo khoa. Theo yêu cầu đổi mới phương pháp, học sinh phải được chủ động lĩnh hội kiến thức, phải được hoạt động nhiều trong giờ học. Bằng những phương pháp phù hợp như đặt câu hỏi định hướng phát hiện, suy luận, liên hệ thực tế... để học sinh có thể chủ động học và hiểu biết, luyện tập, khắc sâu kiến thức cơ bản. Đồng thời phát huy tác dụng giáo dục về tri thức và đạo đức học sinh. Với trách nhiệm lớn lao của người thầy là đào tạo thế hệ trẻ tương lai tôi luôn suy nghĩ: Muốn có giờ dạy tốt thì người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ trước khi lên lớp như đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, lựa chọn câu hỏi để phát vấn có hiệu quả. Từ đó học sinh sẽ tiếp thu bài nhanh hơn và lưu giữ lượng kiến thức bài học lâu hơn. Cụ thể trước mỗi tiết dạy người giáo viên phải có sự chuẩn bị như sau: - Soạn bài chu đáo, xác định rõ mục tiêu và trọng tâm bài học, nắm chắc nội dung, phương pháp bám chuẩn kiến thức, kỹ năng, tích hợp môi trường vận dụng vào trong bài dạy. - Dự kiến những vấn đề để hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức. 6 3.1.Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh nhận biết đối tượng trong văn miêu tả: bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt. Có thể coi đây là những bức tranh bằng ngôn ngữ, dừng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt động nào đó, một hoạt động nào đó của thiên nhiên của con người (Một phiên chợ tết, một bến đò hoặc ga tàu đông khách, một cuộc thi thả diều, một cánh rừng,một dòng sông, một làng quê,yên tĩnh,). Nội dung của kiểu bài này không nghèo nàn, thậm chí rất phong phú nhưng do kinh nghiệm quan sát của học sinh còn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ sắp xếp ý còn hạn chế nên bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối. Khi làm kiểu bài này giáo viên cần lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau - Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, học sinh có thể chọn một trong số các trình tự tả : theo trình tự thời gian, không gian, số lượng cảnh,Bức tranh thiên nhiên không bao giờ ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm nổi bật được sự thay đổi này (Mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia, thời điểm này khác thời điểm kia) - Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, học sinh cần tìm được một số hình ảnh tiêu biểu để tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên thiên nào thì cũng phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng tự nhiên,như gió, nắng Các biện pháp nghệ thuật, so sánh, nhân hóa nên được vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn tả sinh động hơn. - Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu. ưu tiên dùng nhiều những từ láy tượng hình,tượng thanh, nghệ thuật so dài, câu đặc biệt hay câu bình thường, câu đảo ngữ hay câu đảo lược Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét cảm nghĩ vào văn tả cảnh sinh hoạt Ví dụ : Một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức: “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.” =>Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. Tác giả cũng đã dùng thị giác để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã dùng thính giác để nghe tiếng dế và dùng khứu giác để cảm nhận hương vườn 8 ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối -thứ âm thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”. Ví dụ 2: Cũng trong văn bản “ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn Đoàn Giỏi đã miêu tả cảnh dòng sông và rừng đước Năm Căn theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể: “Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng.Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng được dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai”. *Tả theo trình tự thời gian Ví dụ : “Biển đẹp”- Vũ Tú Nam “Buổi sớm nắng sáng. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại đến một buổi chiều gió mùa đông bắc vừa dừng. Biển lặng, đỏ, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên.Rồi một ngày mưa rào. Mưa dăng dăng bốn phía. Có quãng nắng xuyên xuống biển óng ánh đủ màu:xanh lá mạ,tím phớt,hồng xanh biếcCó quãng thâm sì, nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt” * Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng. Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả chợ Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng của mình, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu có nơi tận cùng phía Nam Tổ quốc: “Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ 10 So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng và tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ đến hình ảnh tương đồng nào đó. Chính sự so sánh liên tưởng này giúp cho trang văn miêu tả của các em hay hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn cho các em một số cách so sánh như sau: – Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vào ai bỏ quên giưa cánh đồng lúa chín” (Theo Vích – to Huy gô); “ Măng chồi lên nhon hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất lũy mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú) – Có thể so sánh vật với con người: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên.”; “ Cây bưởi như một người mẹ đang cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc... Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau: – So sánh theo hướng thu nhỏ lại: “ Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa không trung” ; “Xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm rập rờn trên mặt biển” – So sánh theo hướng phóng đại lên: “Chiếc lá tre thả xuống dòng nước, chòng chành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng tôi” – So sánh theo hướng cụ thể hóa: “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như long đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân) – So sánh theo hướng trừu tượng hóa: “ Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào than tre” (Nguyễn Tuân) Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như những hạt ngọc đính trên cành hoa hồng” ; “ Cánh đồng lúa chín trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”... d.Rèn kĩ năng nhận xét trong văn miêu tả Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. 12 Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng , quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”. 3.3. Sau đó giáo viên cần giúp học sinh tìm hiểu đề, xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài. Ở bước này tôi sẽ hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài, gạch chân những từ ngữ then chốt của đề bài, xác định thể loại, nội dung, phạm vi của đề bài. Việc xác định đúng yêu cầu của đề bài (về thể loại, nội dung và phạm vi) sẽ giúp học sinh không bị lạc đề, xa đề. * Ví dụ: - Đề bài miêu tả cảnh như sau: “Em hãy tả quê hương em vào một buổi nắng đẹp”. Giáo viên cho học sinh thấy: +Thể loại: Miêu tả + Nội dung: tả quê hương em + Phạm vi: buổi nắng đẹp Đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy thế nào là tả cảnh tổng hợp? Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy là xác định cảnh tổng hợp nhờ những từ ngữ nào? - Đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “một miền quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở...” - Cảnh tổng hợp là như thế nào? Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ của quê hương hay miền quê thường là cánh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa, giếng nước ,sân đình, khu vườn nhà... Sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu tả ở thời gian nào (mùa nào) ở không gian nào (cảnh đó như thế nào)... Việc xác định được đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em rất nhiều trong việc định hình được đối tượng miêu tả. 3.4. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn tả cảnh. Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp 14
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_6_lam_bai_van_t.doc